Nghề nghiệp và việc làm

Nghề hay nghiệp, đại từ điển tiếng Việt (Nguyễn Như ý chủ biên, Nxb Văn hoá thông tin – 1998) định nghĩa: “Nghề: Công việc chuyên làm theo sự phân công của xã hội”; còn “Nghề nghiệp là nghề nói chung”.[58]. Từ điển Tiếng Việt (Văn Tân chủ biên, Nxb Khoa học xã hội – 1991) thì định nghĩa: “Nghề là công việc hàng ngày làm để sinh nhai”, “Nghề nghiệp: là nghề làm để mưu sống”, còn từ điển Larousse của Pháp định nghĩa: “Nghề nghiệp (Profession) là hoạt động thường ngày được thực hiện bởi con người nhằm tự tạo nguồn thu nhập cần thiết để tồn tại”.

Theo E.A Klimôp: “Nghề nghiệp là một lĩnh vực sử dụng sức mạnh vật chất và tinh thần của con người một cách có giới hạn, cần thiết cho xã hội (do sự phân công lao động xã hội mà có). Nó tạo cho mỗi con người khả năng sử dụng phương tiện cần thiết cho việc tồn tại và phát triển”. [28] Theo GS. TSKH Nguyễn Văn Hộ: “Nghề nghiệp như là một dạng lao động vừa mang tính xã hội (sự phân công xã hội ), vừa mang tính cá nhân (nhu cầu bản thân) trong đó con người với tư cách là chủ thể hoạt động đòi hỏi để thoả mãn những nhu cầu nhất định của xã hội và cá nhân”. [21] Từ một số quan niệm về nghề nghiệp nêu trên, có thể hiểu một cách ngắn gọn, nghề nghiệp là một dạng lao động đòi hỏi ở con người một quá trình đào tạo chuyên biệt, có những kiến thức, kỹ năng, kĩ xảo chuyên môn nhất định, có phẩm chất, đạo đức phù hợp với yêu cầu của dạng lao động tương ứng. Nhờ quá trình hoạt động nghề nghiệp, con người có thể tạo ra sản phẩm thoả mãn những nhu cầu vật chất, tinh thần của cá nhân và xã hội. Nghề nghiệp của một người có thể do được đào tạo chính thức về nghề đó vì nghề đòi hỏi một trình độ tri thức, kĩ năng, kĩ xảo nhất định. Cũng có thể có nghề được hình thành tự phát do tích luỹ kinh nghiệm xã hội hoặc do truyền và học nghề theo cách kèm cặp giữa người biết nghề và người chưa biết. Các nghề này chưa có quy trình đào tạo rõ rệt. Nghề được đào tạo có đặc trưng là người làm nghề phải được cung cấp trình độ tri thức kĩ năng, kĩ xảo hành nghề, làm ra sản phẩm để trao đổi trên thị trường, thu nhập của người lao động chính là nguồn sống của họ. Chính vì vậy mà họ trở thành đối tượng hoạt động cơ bản, lâu dài của lý tưởng nghề nghiệp, từ đó hình thành nhân cách nghề nghiệp. Nghề được đào tạo đòi hỏi người vào học nghề đó phải có trình độ học vấn, sức khỏe và yêu cầu tâm lý phù hợp với nghề. Sau quá trình đào tạo, người đó phải đạt được tiêu chuẩn quốc gia về kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo tay nghề theo mục tiêu xã hội đòi hỏi, được cấp bằng hay chứng chỉ về nghề.

Đi đôi với khái niệm nghề nghiệp là khái niệm về việc làm. Việc làm, theo đại từ điển Tiếng Việt (đã dẫn): “Việc làm là công việc, nghề nghiệp thường ngày để sinh sống”. Còn từ điển tiếng Việt (do Hoàng Phê chủ biên – Nxb Khoa học xã hội – 1994) lại định nghĩa “Việc làm: công việc được giao cho làm và trả công”.[35]. Trong luật lao động qui định tại điều 13: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm”. Như vậy hai khái niệm nghề nghiệp và việc làm là rất gần nhau, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau nhưng không đồng nhất. Nghề nghiệp được coi là việc làm nhưng không phải việc làm nào cũng là nghề nghiệp. Những việc làm nhất thời, không ổn định do con người bỏ sức lao động giản đơn và được trả công để sinh sống thì không phải là nghề nghiệp.