Thực trạng thất nghiệp năm 2011.

Tỷlệthất nghiệp khu vực thành thịluôn cao hơn khu vực nông thôn vàngược lại tình trạng thiếu việc làm ởkhu vực nông thôn thường cao hơn khu vựcthành thị. Năm 2011, tỷlệthất nghiệp trong độtuổi lao động của khu vực thành thịlà 3,6% và tỷlệthiếu việc làm trong độtuổi lao động của khu vực nông thôn là3,56%. Đây là một trong những nét đặc thù của thịtrường lao động nước ta trongnhiều năm gần đây.

 

Ghi chú:        Series1: Chung        Series2: Thành thị                Series3: Nông thôn

                1, Cả nước

                2, Đồng bằng sông Hồng                        6, Đông Nam Bộ

                3, Trung du, miền núi phía Bắc                7, Đồng bằng sông Cửu Long

                4, Trung Bộ, duyên dải miền Trung                8, Hà Nội

                5, Tây Nguyên                                9, TP Hồ Chí Minh

Tỷlệthất nghiệp khu vực thành thịcủa các vùng kinh tế- xã hội rất khácnhau. Con sốnày của Tây Nguyên là thấp nhất (1,95%) và của thành phốHồChíMinh là cao nhất (4,52%). Thất nghiệp ởkhu vực thành thịcủa nữcao hơn củanam ởtất cảcác vùng, trừTrung du và miền núi phía Bắc. Điều này cho thấy nhucầu việc làm của phụnữlà một vấn đề đáng quan tâm.

Trong 6 tháng đầu năm 2011, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước ước tính đạt 50,4 triệu người, tăng 33,2 nghìn người so với lực lượng lao động trung bình năm 2010, trong đó nam 26 triệu người, tăng 72,4 nghìn người; nữ 24,4 triệu người, giảm 39,2 nghìn người.

Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động của cả nước 6 tháng đầu năm là 46,4 triệu người, giảm 7,2 nghìn người so với số bình quân năm trước, trong đó nam là 24,6 triệu người, tăng 42,6 nghìn người; nữ là 21,8 triệu người, giảm 49,8 nghìn người.

Lao động đang làm việc của cả nước trong 6 tháng đầu năm 2011 ước tính đạt 49,2 triệu người, tăng 171 nghìn người so với bình quân năm 2010, trong đó 48,6% làm việc trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản; 21,2% làm việc trong khu vực công nghiệp, xây dựng và 30,2% làm việc trong khu vực dịch vụ.Theo kết quả điều tra lao động tại 4.237 doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, lao động tháng 6/2011 của số doanh nghiệp trên ước tính tăng 1% so với tháng 5, trong đó khu vực doanh nghiệp Nhà nước tăng 0,3%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng 1,3% và khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 1,3%. Trong ba ngành công nghiệp cấp I, lao động ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 1,1%; ngành khai thác tăng 0,3%; lao động ngành điện, nước tương đối ổn định.

Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi 6 tháng đầu năm ước tính 2,58% (năm 2010 là 4,1%), trong đó khu vực thành thị 3,96%; khu vực nông thôn 2,02%. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi ước tính 3,9%, trong đó khu vực thành thì 2,15% và khu vực nông thôn 4,6%.

Lý do lực lượng lao động giảm được giải thích, chủ yếu do một bộ phận lao động đã tự giãn việc trước và sau kỳ nghỉ tết Tân Mão 2011.

Cũng theo Tổng cục Thống kê, lao động đang làm việc của cả nước trong sáu tháng đầu năm 2011 ước tính đạt 49,2 triệu người, tăng 171 nghìn người so với bình quân năm 2010; trong đó 48,6% làm việc trong khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản; 21,2% làm việc trong khu vực công nghiệp, xây dựng và 30,2% làm việc trong khu vực dịch vụ.

Theo kết quả điều tra lao động của 4237 doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, lao động tháng 6/2011 của doanh nghiệp ngành này ước tính tăng 1% so với tháng 5/2011. Trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 0,3%; doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 1,3% và khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 1,3%.Trong ba ngành công nghiệp cấp I, lao động ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 1,1%; lao động ngành khai thác tăng 0,3%; lao động ngành điện, nước giữ ổn định.

Lao động trong các doanh nghiệp công nghiệp tháng 6/2011 so với tháng 5/2011 của một số tỉnh, thành phố có quy mô công nghiệp lớn cũng có biến động theo chiều hướng tăng nhẹ: Bắc Ninh tăng 4,5%; Hải Dương tăng 2,6%; Bà Rịa – Vũng Tàu tăng 2,1%; Tp.HCM tăng 1,1%; Vĩnh Phúc tăng 0,7%; Bình Dương tăng 0,7%; Đồng Nai tăng 0,6%; Cần Thơ tăng 0,5%; Hải Phòng tăng 0,5%.